Sau năm 1975, KTTN ở Việt Nam đã bị “loại bỏ” khỏi cơ cấu kinh tế quốc gia, với các hình thức “cải tạo” và “xóa bỏ” theo chủ trương chính trị của thời kỳ đó. Chính sách này, dù xuất phát từ mục tiêu thúc đẩy CNXH, nhưng lại không tương thích với thực tế và nhu cầu phát triển của đất nước, dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trong giai đoạn 1975-1986. Chỉ đến Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta mới bắt đầu nhận thức lại vấn đề này, mở ra một cuộc đổi mới toàn diện với trọng tâm là đổi mới kinh tế. Khi đó, KTTN dần được công nhận và tạo điều kiện để phát triển trở lại. Khái niệm “khu vực kinh tế tư nhân” chỉ được chính thức ghi nhận từ tháng 3 năm 1989, trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6, khóa VI. Đến Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), cơ cấu kinh tế quốc dân được Đảng định hình bao gồm: khu vực kinh tế nhà nước (KTNN); kinh tế hợp tác xã; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Trong Văn kiện này, Đảng sử dụng khái niệm “thành phần kinh tế tư nhân” nhưng chỉ có KTNN được gọi là “khu vực kinh tế”, còn các hình thức tổ chức kinh tế khác, trong đó có KTTN, thì không được gọi là “khu vực kinh tế”.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), từ thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế và những đóng góp tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam, Đảng ta đã xác định nền kinh tế quốc dân bao gồm sáu thành phần, đồng thời đưa ra cách phân chia nền kinh tế thành sáu khu vực, bao gồm: khu vực KTNN; khu vực kinh tế tập thể (KTTT); khu vực KTTN; khu vực kinh tế cá thể; khu vực kinh tế hỗn hợp; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Cách phân định này phản ánh tính đa dạng của nền kinh tế, đồng thời cho thấy nỗ lực của Đảng trong việc hài hòa giữa định danh các thành phần kinh tế và cấu trúc các khu vực kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (năm 2006), một bước tiến quan trọng đã được đánh dấu khi Đảng chính thức cho phép đảng viên tham gia phát triển KTTN dưới các hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ, và TBTN. Từ đó, các hình thức tổ chức kinh tế này được hợp nhất và gọi chung là “kinh tế tư nhân”. Theo đó, Đại hội X đã xác định lại cơ cấu kinh tế Việt Nam, bao gồm năm thành phần: KTNN, KTTT, KTTN, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội X, mặc dù thuật ngữ “khu vực kinh tế” tiếp tục được sử dụng, Đảng chỉ tập trung đề cập đến khu vực KTNN, trong khi khu vực KTTN chưa được thảo luận sâu hoặc phân tích cụ thể. Trên cơ sở thực tiễn này, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011) đã tái xác định cơ cấu kinh tế Việt Nam, chia thành bốn thành phần chính: KTNN, KTTT, KTTN và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý, trong cùng Văn kiện, thuật ngữ “khu vực kinh tế” được sử dụng để chỉ khu vực KTTN, bên cạnh các thành phần kinh tế đã nêu. Điều này cho thấy, tại Đại hội XI, các khái niệm “thành phần kinh tế tư nhân” và “khu vực kinh tế tư nhân” được sử dụng song song, cùng để đề cập đến các tổ chức kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX.
Văn kiện Đại hội XII (năm 2016) tiếp tục làm rõ khái niệm về thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam. Cụ thể, nền kinh tế này được xác định có quan hệ sản xuất (QHSX) tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, đồng thời tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Trong đó, KTNN được khẳng định giữ vai trò chủ đạo, còn KTTN được xem là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tiếp tục tạo nên một bước tiến mới trong nhận thức của Đảng về KTTN khi ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW (năm 2017) về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết 10-NQ/TW đã tạo động lực thúc đẩy KTTN phát triển mạnh mẽ ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế. Văn kiện Đại hội XIII (năm 2021) tiếp tục khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,tự lực, tự cường. Quan điểm này của Đảng phản ánh rõ rệt mục tiêu phát triển toàn diện, bền vững và hòa nhập của nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và thực hiện các mục tiêu chiến lược của đất nước.
Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Với những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết sẽ tạo ra đòn bẩy giúp Khu vực kinh tế tư nhân phát triển, trở thành “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thưc hiện thắng lợi Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị và các chủ trương, đường lối khác của Đảng.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, những đổi mới tư duy lý luận về KTTN gắn với mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo tiền đề quan trọng để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách nhằm khai thác, phát huy hiệu quả các nguồn lực., KTTN từng bước được khẳng định là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, trên thực tế, dù đã có những bước chuyển biến đáng kể, khu vực KTTN vẫn chưa phát huy được đầy đủ vai trò tương xứng với tiềm năng vốn có.
Thực tiễn làm nảy sinh những vấn đề không đơn giản trả lời bằng tư duy và nhận thức cũ, nhưng không phải những nguyên tắc cũ hoàn toàn lỗi thời, nhất là những nguyên tắc thuộc bản chất ảnh hưởng quyết định đến xã hội mới đang xây dựng. Do vậy, để khu vực KTTN trở thành động lực quan trọng nhất trong thúc đẩy tăng trưởng cao trong các năm tới cần thực hiện các vấn đề có tính quy luật sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân
Một trong những điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển của khu vực KTTN là đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về vai trò của nó trong nền kinh tế quốc gia. Việc khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho KTTN phát triển không chỉ là một chính sách mang tính giai đoạn, mà còn là một chiến lược dài hạn, nhất quán trong quá trình phát triển kinh tế. Điều này đòi hỏi sự thống nhất trong nhận thức toàn xã hội: (1) cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KTTN nhằm tạo sự đồng thuận xã hội, khẳng định vai trò của khu vực này trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân ( phát triển kinh tế tư nhân là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài; phát triển kinh tế tư nhân cần được cụ thể hoá trong các chiến lược, chính sách; phát triển kinh tế tư nhân nhằm phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, sử dụng hiệu quả mọi nguồng lực); (2) cần xóa bỏ những định kiến lỗi thời, không còn phù hợp với thực tiễn phát triển. Tư duy về KTTN cần được tiếp cận một cách khách quan, khoa học, thay vì đặt trong những ràng buộc mang tính cứng nhắc, cản trở sự phát triển; (3) việc tạo điều kiện thuận lợi để KTTN phát triển theo hướng minh bạch, bền vững phải trở thành một nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế Quốc gia.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc hoàn thiện thể chế và chính sách kinh tế là yêu cầu cấp thiết nhằm đảm bảo một môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch và công bằng, tạo điều kiện cho khu vực KTTN phát triển mạnh mẽ. Để đạt được mục tiêu này: (1) cải cách pháp lý cần được đẩy mạnh nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thành lập, tiếp cận các nguồn lực sản xuất; (2) việc tạo lập một sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển của KTTN. Việc nâng cao năng lực thực thi pháp luật, minh bạch hóa các quy định và cơ chế giám sát, bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp tư nhân; (3) trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thể chế kinh tế cần được điều chỉnh linh hoạt để giúp doanh nghiệp tư nhân thích ứng và tận dụng tối đa lợi thế từ các hiệp định, cam kết quốc tế.
Thứ ba, hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh
Một trong những rào cản lớn đối với sự phát triển của khu vực KTTN là khả năng tiếp cận và khai thác hiệu quả các nguồn lực phục vụ sản xuất, kinh doanh. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân, cần triển khai các chính sách hỗ trợ: (1) phát triển nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi giúp KTTN nâng cao năng suất lao động và chất lượng quản trị doanh nghiệp. Đồng thời, cần điều chỉnh cơ cấu đào tạo ngành nghề theo hướng gắn kết chặt chẽ với nhu cầu thực tế của thị trường lao động, đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao; (2) ứng dụng khoa học - công nghệ và thúc đẩy chuyển đổi số là giải pháp thiết yếu giúp doanh nghiệp tư nhân nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động. Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện thị trường khoa học - công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ tiên tiến, đặc biệt trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao; (3) cải thiện khả năng tiếp cận tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân mở rộng quy mô và phát triển bền vững. Cần đổi mới chính sách tín dụng theo hướng linh hoạt, minh bạch, tạo điều kiện để doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng tiếp cận vốn vay từ ngân hàng thương mại, quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc các nguồn vốn khác.
Thứ tư, củng cố vai trò của kinh tế nhà nước, tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế
Mặc dù KTTN đóng vai trò là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, nhưng kinh tế nhà nước vẫn giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó: (1) cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, tập trung vào các lĩnh vực then chốt và có vai trò dẫn dắt nền kinh tế; (2) thúc đẩy hợp tác giữa khu vực công và khu vực tư là một trong những giải pháp quan trọng để tạo động lực tăng trưởng bền vững. Cần khuyến khích các mô hình hợp tác công - tư, đẩy mạnh sự liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong các lĩnh vực có tác động lan tỏa lớn như phát triển hạ tầng, công nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics…; (3) Nhà nước cần tăng cường công tác quản lý, giám sát nhằm đảm bảo KTTN phát triển đúng hướng, tuân thủ pháp luật và hạn chế các tác động tiêu cực như trốn thuế, gian lận thương mại, thao túng thị trường; (4) cần phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong khu vực KTTN, đặc biệt là tại các doanh nghiệp tư nhân. Việc xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động không chỉ giúp duy trì sự ổn định của doanh nghiệp mà còn góp phần xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững theo định hướng XHCN.
Thứ năm, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong kinh tế tư nhân
Về ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, KTTN, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, đang đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ số, mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển kinh tế. KTTN tạo ra các sản phẩm và dịch vụ đột phá, nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo ra giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế.
KTTN đã và đang khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Để KTTN thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, Đảng ta cần tiếp tục đổi mới tư duy, thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc thúc đẩy KTTN phát triển không chỉ là yêu cầu cấp thiết để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam mà còn là yếu tố quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu có những chính sách đúng đắn và phù hợp, KTTN sẽ tiếp tục đóng vai trò động lực, góp phần xây dựng nền kinh tế Việt Nam vững mạnh, phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021). Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin (dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị). NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007). Văn kiện Đảng toàn tập. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015). Văn kiện Đảng toàn tập. NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
7. Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Th.S Lê Chí Trung
Giảng viên chính khoa Lý luận cơ sở