Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”. Trong phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, Đảng không chỉ là đề ra chủ trương, đường lối, tổ chức thực hiện… mà còn phải kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện đường lối, cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách và kiểm tra ngay cả các tổ chức làm nhiệm vụ kiểm tra.
Trong những năm qua, Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quy định quan trọng về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, như: Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007, Hội nghị Trung ương 5 khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 14/02/1998 của Bộ Chính trị khóa VIII về tăng cường công tác kiểm tra của Đảng; Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; Quy định số 86-QĐ/TW ngày 01/6/2017 của Bộ Chính trị khóa XII về giám sát trong Đảng; Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 09/12/2021 của Ban Bí thư thực hiện một số nội dung Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Kết luận số 34/KL-TW ngày 18/4/2022 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 28)… Qua đó, đã tạo chuyển biến tích cực về nhận thức của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện toàn diện các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của Trung ương với tinh thần quyết liệt “không ngừng”, “không nghỉ”, “không chùng xuống”, có trọng tâm, trọng điểm, bám sát nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng; tăng cường kiểm tra việc thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, dư luận bức xúc. Uỷ ban kiểm tra các cấp, các cơ quan tham mưu, giúp việc bước đầu thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh những thiếu xót, khuyết điểm về nguyên tắc, thủ tục, quy trình, chế độ công tác. Tuy nhiên, Việc rà soát, sửa đổi, ban hành các quy trình, quy định về công tác kiểm tra, giám sát của một số cấp uỷ, tổ chức đảng có lúc chưa kịp thời, có nội dung chưa phù hợp với quy định, hướng dẫn của cấp trên hoặc tình hình thực tiễn. Công tác kiểm tra tài chính đảng và việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của một số uỷ ban kiểm tra, cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ, nhất là cấp huyện còn hạn chế.
* Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng hiện nay cần tập trung thực hiện một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, thực hiện tốt chế độ sinh hoạt, báo cáo định kỳ.
Mọi tổ chức đảng đều phải thực hiện nghiêm túc việc sinh hoạt chi bộ định kỳ, qua đó đánh giá hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng và đảng viên, đồng thời góp phần giữ vững tư cách đảng viên. Thông qua sinh hoạt chi bộ thường kỳ, các tổ chức đảng và mọi đảng viên đánh giá nghiêm túc việc chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết của cấp ủy các cấp, việc rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững tư cách đảng viên. Kết quả của các đợt sinh hoạt phải được báo cáo đầy đủ lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp. Đây chính là cơ sở quan trọng để cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của mình. Nếu có vấn đề nảy sinh trong công tác, xuất hiện những biểu hiện không tốt về nhận thức chính trị, tư cách đảng viên; hiệu lực lãnh đạo và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng giảm sút, cấp ủy cấp trên và ủy ban kiểm tra các cấp có thể chấn chỉnh kịp thời.
Thứ hai, tăng cường mối liên hệ mật thiết với quần chúng Nhân dân, thực hiện nghiêm các quy định của Đảng.
Thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân để Đảng nắm thông tin về đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng trong việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nắm rõ phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, để có thể phát hiện những tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy công quyền. Trong thực tế hiện nay, hơn 70% các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí được phát hiện là do báo chí và người dân cung cấp thông tin. Điều đó cho thấy, nếu Đảng, chính quyền thực sự dựa vào nhân dân, thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân thì cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ đạt được kết quả cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Với Đảng, “Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết”. Bởi vậy, “một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng”.
Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Quy định số 213-QĐ/TW ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú và các chỉ thị, nghị quyết, quy định hiện hành của Đảng. Thông qua việc thực hiện tốt các quy định của Đảng, được sự quan tâm theo dõi của tập thể và quần chúng, từng đảng viên có điều kiện và hoàn cảnh nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, giữ vững tư cách đảng viên; tổ chức đảng ngày càng hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị. Đó cũng chính là mục tiêu của công tác kiểm tra, giám sát. Vì vậy, các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện tốt các quy định của Đảng cũng chính là làm tốt công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp.
Thứ ba, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt chú trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng
Điều lệ Đảng ghi rõ: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Là thành viên của tổ chức Đảng, các đảng viên có trách nhiệm chấp hành đúng, đầy đủ các nguyên tắc nói trên. Thời gian qua, việc không chấp hành, cố ý làm trái nguyên tắc của Đảng chính là nguyên nhân khiến một bộ phận không nhỏ đảng viên sa vào vi phạm kỷ luật, kỷ cương của Đảng, Nhà nước trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, được quy định tại Điều 9 Điều lệ Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ đạo toàn bộ, xuyên suốt quá trình xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng chi phối các nguyên tắc tổ chức, hoạt động khác của đảng, trong đó có công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng đã cụ thể việc thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng: “Ủy ban kiểm tra được lập từ đảng ủy cơ sở trở lên, do cấp ủy cùng cấp bầu; nhiệm kỳ hoạt động của ủy ban kiểm tra theo nhiệm kỳ hoạt động của cấp ủy cùng cấp; ủy ban kiểm tra thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cùng cấp và sự chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra cấp trên”.
Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén chống những quan điểm và tư tưởng sai trái. Do đó, tự phê bình và phê bình phải tiến hành dựa trên sự phân tích, đánh giá khách quan, khoa học những hoạt động của đảng viên, tổ chức đảng. Việc đánh giá, xem xét trong tự phê bình và phê bình phải căn cứ vào Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, Hiến pháp và pháp luật..., làm rõ được mục đích chính, tác động cơ bản của những hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên. Những quan điểm đúng đắn, vì sự tiến bộ, phục vụ nhân dân phải được ủng hộ, bảo vệ; quan điểm ngược lại phải bị phê phán, xóa bỏ, đặc biệt là những hành vi lợi dụng tự phê bình và phê bình để mưu toan trục lợi, kéo bè kéo cánh, chia rẽ đoàn kết trong Đảng. Phải nêu cao tinh thần cộng sản, kiên trì thực hiện tự phê bình và phê bình một cách trong sáng, bảo vệ những quyền và lợi ích cơ bản của người đảng viên. Việc thực hiện nhuần nhuyễn hoạt động tự phê bình và phê bình với yêu cầu cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số là điều kiện cho công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy và Uỷ ban Kiểm tra các cấp đạt được kết quả tốt.
Hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng không thể thực hiện hiệu quả nếu tách rời việc thực hiện các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt đảng. Kỷ luật và tính thống nhất trong Đảng dựa trên sự tự giác, tinh thần phấn đấu không ngừng của mỗi đảng viên, tính chiến đấu không khoan nhượng trước những vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng. Vì thế, giữ vững các nguyên tắc và chế độ sinh hoạt đảng chính là xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, cũng là thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát
Trần Thị Thanh Huyền