Có thể nói, hầu như tất cả các quan điểm lớn của Đại hội XIII và Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX đều mang trong đó những luận cứ khoa học của các bộ môn trong chương chình TCLLCT như: triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh… Đội ngũ giảng viên của Nhà trường và khoa Xây dựng Đảng nhận thức rõ việc đưa nội dung nghị quyết đại hội Đảng các cấp vào bài giảng là việc làm cần thiết, vừa là nhiệm vụ, vừa là trách nhiệm của người giảng viên để giúp học viên kịp thời cập nhật kiến thức mới, vận dụng vào thực tiễn công tác đạt hiệu quả. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn, bản thân mỗi giảng viên tự giác học tập, nghiên cứu nghị quyết đại hội Đảng các cấp một cách đầy đủ, nghiêm túc, trách nhiệm, tránh hình thức. Với việc nắm chắc tinh thần, nội dung của nghị quyết, giảng viên có thể liên hệ chính xác, sát với tình hình thực tiễn ở mỗi địa phương, đơn vị trong bài giảng; đồng thời đấu tranh bác bỏ những luồng tư tưởng, các quan điểm sai trái, thù địch, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, làm tốt công tác tuyên truyền đưa nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống.
Qua hơn 2 năm nghiên cứu, vận dụng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX vào thực tiễn công tác giảng dạy của khoa Xây dựng Đảng, có thể rút ra một số kinh nghiệm cụ thể như sau:
Một là, giảng viên cần nghiên cứu, nắm vững và lựa chọn nội dung phù hợp trong các nghị quyết đại hội đảng các cấp để vận dụng vào các bài học, phần học. Là giảng viên khoa Xây dựng Đảng, trước hết cần nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc tuyên truyền, đưa nghị quyết vào cuộc sống. Từ đó có động cơ học tập, nghiên cứu một cách sâu sắc nghị quyết đại hội Đảng các cấp. Là người giảng dạy, bồi dưỡng, truyền đạt kiến thức về xây dựng Đảng, lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên cấp cơ sở, giảng viên khoa Xây dựng Đảng không chỉ dừng lại ở việc hiểu rõ giá trị cốt lõi của các nghị quyết đại hội, vận dụng đường lối, quan điểm của nghị quyết vào các bài giảng phù hợp với nội dung phần học, bài học, phù hợp với đối tượng, trình độ đào tạo bồi dưỡng.
Cụ thể, đối với môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài việc phải phân tích để đạt được mục tiêu bài học trong các giai đoạn lịch sử, giảng viên cần khẳng định những thành tựu đạt được hơn 93 năm qua dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi đó đã góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời lựa chọn, lồng ghép những đánh giá , nhận định mới của Đại hội XIII về thành tựu của Đảng như: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta..."
[1]. Kiên định mục tiêu Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mà Đảng, Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn, con đường hợp quy luật phát triển của lịch sử nhân loại trong thời đại ngày nay. Đó là con đường thể hiện ý chí và khát vọng phát triển đất nước của toàn Đảng và toàn thể dân tộc Việt Nam trên con đường hội nhập.
Đối với môn Xây dựng Đảng, ngoài việc giúp học viên hiểu rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới; về vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiền phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Giảng viên cần nắm vững và khẳng định nhận thức mới rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng hiện được Đại hội XIII đề ra: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực sự là "then chốt của then chốt", tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu…”
[2]. Những nhận thức mới của Đại hội lần thứ XIII của Đảng về công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ 2021-2025 là cực kỳ quan trọng, đòi hỏi giảng viên phải làm rõ để góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và học viên để họ không ngừng nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống, không ngừng nêu gương trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao…, góp phần thực hiện thắng lợi công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng ở địa phương cơ sở.
Đối với môn Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Giảng viên phải nghiên cứu, vận dụng những nội dung và nhận thức mới về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò làm cầu nối quan hệ giữa Đảng với nhân dân của các tổ chức này. Vì vậy, trong giảng dạy, giảng viên cần khẳng định quan điểm chung nhất của Đảng: “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội. Góp phần “củng cố, tăng cường lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”
[3]. Trong đó vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, tập trung làm rõ những điểm mới trong văn kiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp
Để không bị trùng lặp về kiến thức và để học viên dễ dàng lĩnh hội những nội dung mới trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Văn kiện Đại hội lần thứ XX của Đảng bộ tỉnh, giảng viên phải bám sát vào văn kiện của các kỳ đại hội, so sánh các quan điểm cơ bản của các kỳ đại hội trước đó. Làm rõ những điểm mới, điểm bổ sung và phát triển từ đó giúp học viên nắm được sự trưởng thành trong tư duy lý luận của Đảng và vai trò lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối mà Đảng đang thực hiện.
Ví dụ khi giảng dạy môn Lịch sử Đảng cần làm rõ sự phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội XIII của Đảng khẳng định, “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”
[4].
Giảng phần Xây dựng Đảng cần làm rõ chủ trương của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, những điểm mới về công tác cán bộ… Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước”
[5]; “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
[6]”; môn Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam cần nêu lên điểm mới về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, về công tác đối ngoại, an ninh - quốc phòng… Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với gìn giữ, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”
[7]. Đây là vấn đề cốt lõi mang tính định hướng việc xây dựng, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam những năm tới. Mặt khác, quá trình phát triển văn hóa, con người phụ thuộc rất lớn vào việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam. Trong điều kiện đất nước đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xác định xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam được trình bày thống nhất ở tầm Văn kiện Đại hội có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình củng cố, bổ sung các giá trị văn hóa, phát triển nhân cách con người Việt Nam.
Về công tác đối ngoại, an ninh - quốc phòng, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”
[8]. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh điểm mới là: “Tiếp tục triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược an ninh mạng quốc gia và các chiến lược quốc phòng, an ninh chuyên ngành khác”
[9].
Việc so sánh các quan điểm, luận điểm của các nghị quyết sau so với các nghị quyết trước phải bảo đảm tính chính xác, khoa học, có hệ thống và sát đúng nội dung, tinh thần, tư tưởng của các văn kiện, đảm bảo chuyển tải đến người học đạt được hiệu quả cao nhất; không cắt xén máy móc, phiến diện, lệch lạc trong nghiên cứu cũng như trong giảng dạy.
Ba là, giảng viên cần lựa chọn các phương pháp phù hợp để khai thác, vận dụng đưa nghị quyết đại hội Đảng các cấp vào bài học.
Việc lựa chọn phương pháp phù hợp để khai thác, vận dụng đưa nghị quyết đại hội Đảng các cấp vào bài học có vai trò rất quan trọng liên quan mật thiết đến thành công của quá trình vận dụng và nâng cao hiệu quả của việc tuyên truyền nghị quyết, đưa nghị quyết vào cuộc sống. Giảng viên cần chú ý lựa chọn các phương pháp như phương pháp lịch sử - lôgic và phương pháp so sánh để khai thác vận dụng vào bài giảng ngoài ra giảng viên có thể kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực để lôi cuốn học viên tham gia thảo luận về các nội dung mới của đại hội đảng các cấp như phương pháp hỏi đáp, phương pháp phỏng vấn, phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia hoặc làm việc nhóm. Nếu kết hợp hài hoà các phương pháp trong quá trình khai thác vận dụng vào bài học và quá trình giảng dạy trực tiếp trên lớp chắc chắn sẽ nâng cao hiệu quả của việc vận dụng đưa nghị quyết của Đảng vào các bài học. Góp phần nâng cao chất lượng các giờ học lý luận chính trị của đội ngũ giảng viên khoa Xây dựng Đảng.
Có thể nói, việc tiếp tục nghiên cứu, vận dụng Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Đại hội XX của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên vào giảng dạy các môn học, phần học do khoa Xây dựng Đảng phụ trách nói riêng và ở Nhà trường nói chung sẽ là cách thức hiệu quả đưa đường lối, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, góp phần đổi mới căn bản nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực tiễn và sáng tạo; góp phần vào công tác “bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diến biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”
[10] , xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”./.
Vũ Mạnh Hà
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB CTQG Sự thật, tập I, H. 2021, tr. 25-26.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NXB CTQG Sự thật, tập I, H. 2021, tr. 26-27.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, tập I, H. 2021, tr. 43.
[4] Văn Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 103.
[5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.229.
[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.111-112.
[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.143.
[8] Sđd tập 1, trang 67-68.
[9] Sđd tập 1, trang 160..
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, tập I, H. 2021, tr. 183.